Thứ Tư, 7 tháng 10, 2015

1.            VÁN CỜ ĐỜI
(TỪ HANG BUA ĐẾN HÀ NỘI )
( Tặng Hải Xinh nguyên chủ tịch hội cựu chiến binh quỳ châu vàông Mỹ  nguyên bí thư huyện Quỳ châu.ông Viết nguyên trưởng ban dân tộc  .ông Chiến bt .ôngThuận ct .chú Hoài pct. những bạn, quê tôi Quỳ Châu)

Quỳ Châu đồi núi chập chùng      
Có chòm Tân Lạc, có rừng hang Bua
Bảy mươi năm, ( một ván cờ)
Từ rừng ra phố - Ai ngờ thắng thua
Quần đùi , áo vá, vu vơ
Bơi sông  Phủ bọn , chạm hồ( năm sao )*
Thương quê, thương bạn ước ao
Bừng quê ra phố, xây cao "4 lầu"
Cà phê, nhạc sống, đèn màu
"Tìm khe, sờ núi " hang sâu thấy trời
Khổ nhiều,  thương lắm quê ơi
Mưa sông phủ bọn, trắng trời hang Bua
                         *   *
Cần gì phố thị được thua
Rượu cần, heo núi, lá bùa em trao
Chúc cho trời thấp, đất cao
Chúc cho ta khỏe." Ra vào" với em !
Bập bùng lửa sáng, màn đêm
  Ta và em, ướt một miền suối khe
Xuân về nghiêng ngả yếm che
Rót em một chén, từ be rượu nhà
Cây rừng, cây tóc, nở hoa
Tiếng chim cu gáy, vang xa cuối vườn
Cây trầm, cây quế, thơm hương
Vui xuân Hà Nội... mà thương quê mình
Hang Bua, Tân Lạc, Đồng mình
Cô ba, Châu tiến, nặng tình tuổi thơ
                          *  *  
Tôi sinh ra trong hang Bua
Ngoài hang đốt lửa, ngăn ngừa khái beo*
Măng rừng, ếch nhái, rong rêu
Củ mài,  củ sắn, mấy chiều nuôi con
Mẹ xa , Tân lạc Vẫn Còn.*
Hội hang Bua, với nước non con về
                  *   *
Bạn tôi. Mỹ,  Hải, Viết , Kỳ......
Ba Sơn Tân lạc,* Thuyết về Đồng minh
HẢI xinh, không thích thị thành
Vào rừng dựng lán,  một mình một em
Rượu cần ,heo nướng, trăng lên...
Qua bom đạn , gió thổi miền quê xa...
Nhớ cô làng đỏ,  ngày xưa
Đã từng chung nón , ướt mưa cuối chiều
/Bây giờ tai,  điếc chân xiêu
Cháu, Con ,nội ,ngoại :bao nhiêu đứa rồi
Tiếng chim và một khoảng trời 
Hoàng hôn, gió núi, Ta ngồi ngắm trăng...


___________________________
*hồ bơi ở khách sạn năm sao .Tân lạc có Ô Sơn nhà Ô Phó Hải, Ô Sơn nhà Ô Vượng,Ô Sơn nhà Ô cai thìn.(3 Sơn). Ô Thuyết CCB ở đồng minh.
*con( khái) là con hổ. Ngày xưa khi có người sinh đẻ nghe mùi máu là con hổ mò đến gầm rú . sau 2 lần sinh con mắc phải đẹn khái (hổ) mà chết.  Lần thứ 3 Thầy mo và 4 người khiêng mẹ tôi vào hang bua sinh tôi trong hang do bà Vượng đỡ đẻ (mẹ ô Sơn Tuyên giáo). ngoài hang đốt lửa , đánh mõ xua đuổi hổ. Khi đầy 1 tháng mới đưa 2 mẹ con về chòm tân lạc . Hồi đó tân lac chỉ có 9 gia đình định cư ( ông Duc thợ may,Ô cai Thìn.ô Tâm là bố tôi,Bà Ấm kèn,ô Thành thợ vàng bạc,Ô Vượng cắt tóc,Ô Phó Hải,Ô Dục Văn phòng ủy ban,Ô Liễu. trong đó có cha tôi là ông giáo tâm . Năm 1949 đến 1959 ông Nguyễn thanh tâm làm trưởng phòng Văn hóa Văn nghệ huyên quỳ châu ( theo sách lịch sử sở  văn hóa tỉnh nghệ an xuất bản năm2007 .) Gồm huyện quỳ hợp ,quỳ châu . Quế phong nhập lại. Quỳ châu những năm 1947  còn nhiều hổ , báo ,voi  đủ loại.
*Chòm Tân lạc những năm 1935 đến 1945 chỉ có 9 gia đình .  Năm 1949  sau  2 năm đôc lập Trưởng Ban Tuyên truyền văn hóa văn nghệ huyện quỳ Châu là ông Nguyễn thanh Tâm  (tên thường gọi là ông Giáo Tâm làm Trưởng phòng 10 năm  : 1949  đến năm 1959 )đổi tên thành Thị Trấn Tân lạc. Sau đó đổi tên thành thị trấn Quỳ châu Thời ông Mỹ làm bí thư huyện ủy thì ông Sơn  Trưởng ban Tuyên huấn . Giám đốc Trường Đảng huyện Quỳ châu Đề nghị Ông Mỹ bí thư Huyện ủy Trả lại tên cho Thị trấn Tân lạc ngày nay. Đúng cái tên thời khai sinh ra chòm tân lạc . Thời vua Bảo đại đi từ Cửa lò lên thăm quan di tích Hang bua . Quỳ châu có nghỉ lại 3 ngày tại chòm Tân lạc.



Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét