Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2015



Phạm Tiến Duật (14 tháng 1 năm 1941 - 4 tháng 12 năm 2007) là một nhà thơ Việt Nam với nhiều tác phẩm thơ tiêu biểu viết trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.
Phạm Tiến Duật sinh ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và tiếng Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời gian ông sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt nam. Ông sống ở Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là người dẫn chương trình của một chương trình dành cho người cao tuổi của kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam.
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.
Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật[1].
Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8:50, ông mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi[2].
(Trích Wikipedia)


NHỮNG KỶ NIỆM VỚI ANH PHẠM TIẾN DUẬT
Những năm tháng ở chiến trường

                                                                   ( báo giấy và báo điện tử Tiền phong in ngày 05/12/ 2007)         
                Tôi vào bộ đội năm 1965, thuộc lớp đàn em của anh Phạm Tiến Duật. Là lính công binh nên
chúng tôi liên tục bám trụ ở các trọng điểm trên địa bàn khu 4 trở vào.
Nhiều lần tôi gặp anh Duật ở ngã ba đường 20 khe Rinh, khe Tang, anh Duật đọc thơ cho chúng tôi nghe và anh đã sửa thơ của tôi, anh còn hướng dẫn chúng tôi cách dùng ngôn ngữ trong thi ca.
Một kỷ niệm trong đời thơ của tôi là đầu năm 72 gặp anh Duật, tôi đã gửi anh hai bài thơ từ chiến trường ra Bắc. Khi chia tay anh, tôi đã lấy thêm hai nắm cơm muối vừng bỏ vào ba lô cho anh Duật đi đường kẻo đói.
Cuối năm 1972, tôi được anh Bằng Việt gửi vào đơn vị cho một quyển Tác phẩm mới của Hội Nhà văn Việt Nam trong đó có hai bài thơ của tôi (Xe tăng qua cầu và Đường ta xây) kèm theo một lá thư 1/2 trang của anh Chế Lan Viên với nội dung:

Lần cuối ngồi với anh Phạm Tiến Duật
Thi sĩ cô đơn như bài thơ số một
Anh lận đận với bài thơ số không
Tôi gồng gánh theo bài thơ số cộng
Hai phía đời, bồi lở hư không.

Đồng đội, cùng tôi, cùng anh
Nửa đời đi qua trận mạc
Vợ con dở khóc, dở cười
Lương, thưởng in thơ tặng bạn.

Tôi lên phòng tổng biên tập
Anh đãi một can rượu suông
“Đọc thơ mừng mày thoát chết”
Hôn nhau, nghẹn đắng mặt mày.

Trước hôm mừng sinh nhật anh
Nửa ngày cùng anh trò chuyện
“Có lẽ tuần sau vào Viện
Tao giờ lực bất tòng tâm”.

Hôm nay anh nằm mê tỉnh
Bất động dáng hình Trường Sơn
Âm vang một thời áo lính
Ai rao mỏi giọng phố phường

Cứ sợ rồi anh đi mãi…
Khói bom thành vòng trắng trôi
Mờ tỏ một vầng trăng bạc
Tìm ai nhấp nhổm lưng trời.
 Bệnh viện 108 ngày 25 tháng 11 năm 2007
                     Châu nho

“Sau khi nhận được hai bài thơ của Châu do Duật gửi về, anh Xuân Diệu đã duyệt và in số 12/72, có nhiều triển vọng, Châu nên cố gắng, viết nhiều và gửi ra cho Tạp chí TÁC PHẨM MỚI."
Tôi mừng lắm, cả tiểu đoàn công binh thay nhau đọc, tôi cũng có danh tiếng từ đó. Những kỷ niệm đầu đời thơ của tôi mà anh Duật là người vạch lối.
Năm 1973, tôi là trợ lý tác huấn E79QK4 đưa Tiểu đoàn 27 đi phối hợp với Đoàn 239, 249 của Bộ Tư lệnh Công binh bắc cầu Nổi qua sông Gianh. Sau hai ngày tác nghiệp, lúc thông cầu, đoàn cán bộ đi qua đầu tiên có Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình, Tư lệnh Công binh, Tư lệnh Đoàn 559, Tư lệnh QK4.
Bỗng nhiên tôi gặp anh Phạm Tiến Duật, anh ôm tôi nâng bổng lên và quát to “Thanh Châu còn sống hả, tớ nghe anh em công binh nói là cậu chết trong trận phá bom ở phà Bến Thủy rồi cơ mà – May quá! Thơ in rồi nhận được chưa? Tớ đã hoàn thành nhiệm vụ cho cậu nhé”. Tôi cảm ơn và đưa cho anh bài thơ “Qua cầu Sông Gianh”.
Trong buổi lễ anh Duật có phát biểu: “Công binh Việt Nam đã lập nên kỳ tích lần thứ hai bắc cầu qua cửa biển Sông Gianh sau Trịnh Nguyễn phân tranh, ngày xưa cầu tre, nứa bây giờ là cầu nổi bằng sắt và gỗ lát ván, ôtô qua được”.
Bộ đội yêu cầu anh Duật đọc thơ, anh đã đưa bài thơ của tôi ra đọc và giới thiệu tôi là “Nhà thơ công binh”. Anh em hoan hô tôi nhiều lắm (đây là lần đầu anh đọc thơ tôi và sau này có một lần nữa).

Anh Duật đặt cho tôi bút danh mới ( Nguyễn thành Châu Nho)
Sau giải phóng miền Nam, là thương binh nên tôi được chuyển ngành. Anh Trần Hữu Thung và anh Quang Huy nhận tôi về Hội Văn học Nghệ Tĩnh. Sau đó, tôi chuyển công tác sang ngành thương nghiệp.
Trong một chuyến công tác vào Nghệ An, tại một cuộc rượu có anh Bằng Việt, anh Duật, anh Tạo và anh Trần Hữu Thung,Lê thái Sơn : nghe tôi có vợ và con gái đầu, anh Duật nói vui:
“Châu đã sang trang mới rồi, bây giờ đã có vợ, con,vừa làm kinh tế vừa làm thơ, bút danh nên có cả tên vợ mới vui”.
Và anh đặt bút danh mới cho tôi là: Nguyễn Thành Châu Nho (Nho là vợ tôi ). Anh Bằng Việt và anh Tạo ,Anh Trần hữu Thung, nhất trí nên lấy bút danh Châu Nho cho ngắn gọn thay cho Nguyễn Thanh Châu hồi chiến tranh.Ba Anh giao cho Lê thái Sơn( chủ tịch hội văn học nghệ an) viết bút danh mới, ba anh ký tên vào và giao cho tôi.
Và từ đó về sau này khi sáng tác đăng trên các báo Văn nghệ Quân đội, Văn nghệ, Diễn đàn Văn nghệ, Tiền phong, Pháp luật, Thương mại, Tài chính tôi đều lấy bút danh “Châu Nho”.
Dạo đó có dịp ra Hà Nội tôi được anh Duật đưa đến gặp anh Xuân Diệu và anh Chế Lan Viên, được các anh giúp đỡ, chỉ bảo cho trong sáng tác thơ sau này.

Phần thưởng của anh Phạm Tiến Duật
Năm 2000 đến 2004, được sự giúp đỡ của bạn bè các nhà văn nhà thơ cùng thời chống Mỹ, tôi đã hoàn thành hai tập thơ (Thời chiêm bao và Sợi tơ mưa) tập hợp các bài thơ trong và sau chiến tranh (trong khoảng 40 năm).
Tôi đưa đến 51 Trần Hưng Đạo (tầng 7, trụ sở của tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam mà anh Duật lúc đó làm Tổng biên tập) tặng anh 2 tập.
Anh Duật phấn khởi nói với tôi: “Mình vừa nghe anh Hữu Thỉnh nói Châu Nho tặng 2 tập thơ và anh Thỉnh giục cậu làm đơn vào Hội. Đơn đâu đưa đây để mình giới thiệu vào Hội”.
Tôi phân vân: “Anh đã viết lời bạt cho THƠ của Châu rồi, nay lại giới thiệu vào Hội có tiện không?”.
Anh quát to: “Thằng này ngu ngơ thật, mày làm thơ cùng thời với bao nhiêu người nổi tiếng, họ vào Hội cả rồi. Mày đã làm thơ gần 40 năm, có hai tập thơ. Tin chắc Hội đồng thơ và Ban chấp hành sẽ ủng hộ”.
Và anh ghi lời giới thiệu vào đơn xin vào Hội của tôi. Sau đó Hội đồng thơ do anh Bằng Việt làm chủ tịch đã thông qua, nhưng đến Ban chấp hành thì còn thiếu 1 phiếu. Đây là một kỷ niệm và là phần thưởng lớn đối với tôi. trước khi về anh còn tặng tôi 4 tập Lịch sử Thế giới (mỗi tập dày 4cm).

Và lần cuối
Lần nào vào Nghệ An làm việc anh đều ghé vào thăm tôi, tháng 5/2007, anh vào nghỉ mát gọi cho tôi, nghe giọng khản đi. Tôi hỏi anh bảo là bị viêm họng. Đến tháng 9/2007, tôi nhận được tin anh bị bệnh hiểm nghèo.
Trước ngày sinh nhật anh, tôi ghé thăm anh, trải chiếu giữa nhà hai anh em ngồi tâm sự, không thấy anh nhắc đến rượu và thuốc lá như lần trước, giọng thì khàn, nhỏ nhẹ. Tôi nhìn anh gầy hơn nhưng vẫn nhanh nhẹn, linh hoạt.
Tôi chưa dám hỏi, anh đã nói luôn: “Mình bị ung thư phổi rồi, đang uống thuốc Nam xem sao”.
Hai anh em nói nhiều chuyện: Chuyện chiến trường ra chỉ có ba lô con cóc, chuyện anh về hưu, chuyện bạn bè cùng thời, dài hơn cả vẫn là chuyện thơ ca và anh có ý nhờ anh Phục cùng các con làm tuyển tập thơ của anh, bạn bè tài trợ để in “Nếu anh uống thuốc không đỡ thì sao?”
– Anh bảo: “Phải vào viện phẫu thuật thôi” nét mặt anh suy tư. Nếu mình vào viện mổ các cậu phải vào động viên nhé, cuộc này gay go đấy… Cuộc chiến cam go này anh đã không vượt qua!

Hà Nội  :23 giờ ngày3 tháng 12/2007
 Nhà thơ ,nhà báo :Nguyễn thanh Châu  (Châu nho)

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét